Khái niệm bệnh Chlamydia là gì?
Chlamydia là một bệnh lây truyền qua đường tình dục vô cùng phổ biến. Bất kỳ ai quan hệ tình dục không an toàn đều có nguy cơ mắc bệnh. Căn bệnh này đang có xu hướng gia tăng trên toàn thế giới. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ước tính có khoảng 90 triệu ca nhiễm chlamydia được phát hiện mỗi năm. Tỷ lệ lưu hành vi khuẩn này ở người lớn ở Nam Thái Bình Dương là 73%, Papua New Guinea 20%, Nhật Bản 7,0%, Senegal 7,0%, và Việt Nam 2,3%.
Giống như virus, Chlamydia trachomatis là một loại vi khuẩn hoàn toàn có khả năng sao chép và phát triển trong điều kiện bên ngoài tế bào sống. Chúng có khả năng xâm nhập và tấn công cơ thể qua đường tình dục, đồng thời cũng là nơi khởi phát bệnh chlamydia.
Nói một cách đơn giản, chlamydia là một trong những bệnh lây truyền qua đường tình dục ngày càng phổ biến do vi khuẩn Chlamydia trachomatis gây ra, đó cũng là một vấn đề sức khỏe của cả nam và nữ.
Tuy nhiên, phụ nữ dễ bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn, thậm chí có thể gây tổn thương nặng và vĩnh viễn cho cơ quan sinh sản. Khi bị nhiễm chlamydia, phụ nữ có thể gặp phải một số hậu quả, bao gồm: Khó hoặc không có khả năng thụ thai. Trong quá trình mang thai, khả năng mang thai ngoài tử cung cũng rất cao.
Tại Việt Nam, một nghiên cứu được thực hiện ở Hà Nội năm 2003 cho thấy tỷ lệ nhiễm chlamydia là 9% ở những người mới đến, 1,5% ở phụ nữ có thai, 1,5% ở những người kiểm tra STD (bệnh lây truyền qua đường tình dục) và 5,0% ở gái mại dâm. Một cuộc điều tra khác đối với phụ nữ bán dâm ở 15 tỉnh biên giới cho thấy 11,9% bị nhiễm chlamydia, trong đó Kiên Giang có tỷ lệ cao nhất là 17,3%, Lai Châu là 16,2% và An Giang có tỷ lệ thấp nhất là 3% trên ruộng lúa.
Các nguyên nhân gây ra bệnh Chlamydia là gì?
Như tên cho thấy – bệnh lây truyền qua đường tình dục, nguyên nhân chính của tình trạng bệnh lý này rất dễ xác định. Quan hệ tình dục không lành mạnh và không an toàn là nguyên nhân số một khiến vi khuẩn dễ dàng xâm nhập vào sâu bên trong bộ phận sinh dục.
Chu kỳ sinh sản của Chlamydia kéo dài khoảng 48 đến 72 giờ, sau đó vi khuẩn phá hủy tế bào và làm tổn thương màng nhầy. Chlamydia có ba loại biến thể sinh học với các biểu hiện lâm sàng và sinh học hoàn toàn khác nhau :
- Chlamydia Psittaci: Loại này phổ biến ở các loài chim và thường gây sốt vẹt ở người.
- Chlamydia Pneumoniae: Là nguyên nhân chính gây bệnh đường hô hấp, có thể lây truyền từ người sang người.
- Chlamydia Trachomatis: Đây là phân loài chính gây nguyên nhân nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục và cũng là nguyên nhân gây ra các triệu chứng đau mắt đỏ.
Chlamydia là một loại vi khuẩn đặc biệt ký sinh trên tế bào sống và có kích thước trung gian giữa virus và vi khuẩn do hệ thống di truyền của nó. Vì vậy Chlamydia vừa được xếp vào nhóm vi khuẩn vừa xếp vào nhóm virus. Chlamydia trachomatis dễ được tìm thấy trong dịch tiết âm đạo, niệu đạo và cổ tử cung.
Các triệu chứng nhiễm bệnh Chlamydia
Hầu hết những người bị bệnh chlamydia lúc đầu không có triệu chứng. Trung bình mỗi năm có khoảng 7 triệu người mắc bệnh mà không biết mình bị nhiễm bệnh. Các triệu chứng của bệnh Chlamydia thường rất ‘tiềm ẩn’, nhẹ hoặc mơ hồ cho đến khi các triệu chứng biểu hiện rõ ràng thì chuyển sang giai đoạn cấp tính của bệnh. Đặc biệt, tỷ lệ mắc bệnh viêm âm đạo ở nữ giới do bệnh chlamydia khoảng 25% đến 50%, và các triệu chứng thường xuất hiện sớm hơn ở nam giới.
Các triệu chứng khác nhau giữa nam và nữ, và thường bao gồm đau trực tràng, tiết dịch và chảy máu. Các triệu chứng thường xuất hiện trong vòng 1 đến 3 tuần sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh.
Triệu chứng ở nữ:
- Tiết dịch bất thường, thường có màu vàng nhạt hoặc trắng.
- Ngứa âm đạo, nóng rát khi đi vệ sinh và cả khi quan hệ tình dục.
- Trong trường hợp nghiêm trọng hơn, nó có thể gây chảy máu âm đạo.
- Cảm thấy đau ở vùng thắt lưng và vùng bụng dưới.
- Sốt cao kèm theo chảy máu trong chu kỳ kinh nguyệt, buồn nôn.
Triệu chứng ở nam :
- “Cậu nhỏ” có cảm giác đau mỗi khi đi vệ sinh hoặc quan hệ tình dục.
- Chất thải màu trắng đục, có mùi hôi.
- Suy giảm khả năng xuất tinh, đôi khi pha loãng tinh dịch với máu.
- Ngứa, nóng rát ở vùng đầu dương vật.
- Tinh hoàn sưng và đau.
Nhiễm Chlamydia khi quan hệ tình dục bằng miệng có thể gây ra mụn nước trên cổ ở cả phụ nữ và nam giới. Bệnh nhân nên đi khám ngay nếu có các dấu hiệu nghiêm trọng sau:
- Phụ nữ: Sốt cao, sốt, đau bụng, tiết dịch. Nếu không, nếu không can thiệp sớm có thể dẫn đến viêm nhiễm cổ tử cung, tử cung, vòi trứng, tăng nguy cơ vô sinh.
- Nam giới: Sốt cao chảy mủ lẫn máu từ dương vật. Tình trạng này tiến triển lâu dài có thể làm suy giảm chức năng tinh hoàn và bìu.
Các loại xét nghiệm xác định Chlamydia
Các triệu chứng của bệnh Chlamydia thường không xuất hiện sớm. Nếu có các triệu chứng nghi ngờ nhiễm chlamydia phải nhanh chóng đến xét nghiệm ngay tại các cơ sở y tế uy tín để chẩn đoán và đưa ra phương pháp điều trị kịp thời cũng giúp giảm thiểu những biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra. Các loại xét nghiệm có thể được thực hiện để chẩn đoán chlamydia bao gồm:
- Nuôi cấy phân lập: Phương pháp xét nghiệm này độ đặc hiệu và độ nhạy cao (> 99%). Trong nhiều năm, nuôi cấy được coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán nhiễm chlamydia. Bác sĩ có thể xác định sự hiện diện của khuẩn trong vòng 24 đến 48 giờ.
- Kháng thể huỳnh quang trực tiếp (DFA): Phát hiện kháng nguyên Chlamydia bằng kháng thể đơn dòng không nhạy, đạt xấp xỉ 60-85% so với nuôi cấy. Độ đặc hiệu của kỹ thuật xét nghiệm này có thể đạt được lên đến 99%.
- Xét nghiệm miễn dịch liên kết enzym (EIA): Giúp phát hiện kháng thể chống Chlamydia trong máu bệnh nhân và kích hoạt hệ thống miễn dịch. Độ nhạy xét nghiệm này là 60-80% và độ đặc hiệu 97-99%
- Các công nghệ phản ứng chuỗi PCR (polymerase), LCR (ligase chain reaction) và TMA có độ nhạy và độ đặc hiệu cao nhất. Mẫu được lấy từ cổ tử cung, niệu đạo và nước tiểu. Xét nghiệm có độ đặc hiệu đạt 99% và độ nhạy dao động từ 70 đến 100%.
Khi bệnh nhân đã được xét nghiệm chẩn đoán nhiễm bệnh Chlamydia, cần tuân thủ điều trị và có thể điều trị dự phòng song song cho người nhiễm chlamydia và bạn tình của họ để tránh nguy cơ tái phát. Phụ nữ mang thai nên khám sức khỏe định kỳ trước và trong khi mang thai để xác định các bệnh lý.
Chlamydia gây ra những biến chứng nào
Trên thực tế, hầu hết tất cả các bệnh đều dẫn đến biến chứng nếu không được điều trị. Đối với các trường hợp nhiễm chlamydia cũng vậy, các biến chứng do chlamydia gây ra rất khó lường, có thể gây ảnh hưởng rất nặng nề đến sức khỏe sinh sản và nhiều hậu quả ngắn hạn hoặc lâu dài, tùy thuộc vào tình trạng bệnh.
Ở phụ nữ, nhiễm trùng có thể lây lan nếu không được điều trị kịp thời. Từ vị trí viêm nhiễm, đặc biệt là ở tử cung sẽ lan dần đến vòi trứng, gây ra bệnh viêm vùng chậu. Thống kê cho thấy những trường hợp này thường xảy ra ở 10-15% phụ nữ không được điều trị. Viêm phần phụ và nhiễm trùng sinh dục không được phát hiện có thể gây tổn thương lâu dài cho ống dẫn trứng, tử cung và các mô xung quanh. Những tổn thương này dẫn đến đau vùng chậu mãn tính và mất khả năng sinh sản. Nghiêm trọng hơn nữa là những trường hợp tử vong do chửa ngoài tử cung, bệnh nhân chlamydia cũng tăng nguy cơ lây nhiễm HIV nếu tiếp xúc.
Phụ nữ mang thai bị nhiễm bệnh có nhiều nguy cơ lây nhiễm cho con của họ, đặc biệt là những người sinh qua đường âm đạo. Trẻ sơ sinh có nguy cơ mắc các bệnh như viêm phổi, nhiễm trùng mắt và mù lòa.
Các biến chứng do chlamydia ở nam giới ít phổ biến hơn. Tuy nhiên, nếu để xảy ra biến chứng, viêm nhiễm có thể lan đến mào tinh hoàn gây đau đớn, sốt và có thể dẫn đến vô sinh.