Năm 1981, trường hợp nhiễm HIV đầu tiên trên thế giới được phát hiện, ngay sau đó việc tìm kiếm thuốc kháng virus để điều trị cho những người nhiễm HIV đã được điều tra và thử nghiệm. Cho đến nay, có hơn 400 loại thuốc ARV được sử dụng để điều trị HIV, nhưng nhiều người cho rằng việc điều trị bằng thuốc ARV có thể giúp ngăn ngừa lây nhiễm HIV từ người nhiễm sang người khác, đặc biệt là bạn tình của họ.
Sự ra đời của loại thuốc kháng HIV đầu tiên :
AZT hay còn gọi là azidothymidine, là loại thuốc điều trị HIV đầu tiên trên thế giới. AZT ban đầu được phát triển bởi các nhà nghiên cứu Mỹ vào năm 1960 để điều trị ung thư. Nó hoạt động bằng cách tự chèn vào DNA của tế bào ung thư, can thiệp vào khả năng tái tạo và hình thành khối u của chúng.
Sau hơn hai mươi năm sử dụng các phương pháp điều trị ung thư, khi HIV nổi lên như một căn bệnh truyền nhiễm mới , công ty dược phẩm Burroughs Wellcome (BW) đã bắt đầu thử nghiệm một loạt các loại thuốc điều trị ung thư để đánh giá xem chúng có hiệu quả chống lại kẻ thù mới là virus HIV không. Trong số những người được thử nghiệm có Hợp chất S, một phiên bản được sắp xếp lại của AZT ban đầu và kết quả cho thấy nó dường như ngăn chặn hoạt động của HIV .
Các nhà khoa học bắt đầu tiêm AZT vào bệnh nhân và cũng sử dụng nó trong các nhóm đối chứng, chủ yếu để xác định liệu AZT có an toàn hay không. Sau 16 tuần, BW thông báo họ ngừng nghiên cứu vì có bằng chứng mạnh mẽ cho thấy hợp chất này có hiệu quả trong việc chống lại HIV và giảm nguy cơ tử vong. Chỉ có một người chết trong nhóm sử dụng loại thuốc mới này, trong khi 19 người chết trong thời gian ngắn ở nhóm đối chứng không dùng thuốc. Công ty cho rằng việc cộng đồng y tế tiếp tục nghiên cứu thử nghiệm là không có đạo đức y học. Kết quả về tác dụng của AZT được BW coi là “bước đột phá” và “ánh sáng cuối đường hầm”. Kết quả là FDA đã phê duyệt loại thuốc chống HIV mới đầu tiên vào ngày 19 tháng 3 năm 1987.
Sử dụng thuốc kháng virus ARV cho người nhiễm HIV
Ngày nay, khi một người nào đó được chẩn đoán nhiễm HIV, việc điều trị có thể được kết hợp với một trong 41 loại thuốc kháng virus HIV . Nhiều phương pháp điều trị HIV đang được nghiên cứu để ngăn chặn virus ở các điểm khác nhau trong vòng đời của nó. Cùng nhau, chúng có thể kiểm soát HIV , giảm khả năng nhân lên và lây lan của virus HIV , hạn chế tối đa virus HIV nếu bệnh nhân tuân thủ điều trị . Luôn sử dụng kết hợp ba loại thuốc khác nhau khi điều trị cho người nhiễm HIV
Sử dụng phù hợp và tuân thủ ARV có thể giúp ích cho những người đã được chẩn đoán nhiễm HIV
- Giảm nguy cơ tử vong và nhiễm trùng cơ hội liên quan đến HIV . Do đó, nó duy trì trạng thái khỏe mạnh của hệ thống miễn dịch, do đó làm giảm những nguy cơ gây nhiễm trùng cơ hội và số ca tử vong liên quan đến HIV
- Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con: Điều trị ARV sớm ở phụ nữ mang thai giúp ức chế HIV trong máu xuống mức thấp và giảm nguy cơ lây truyền HIV từ mẹ sang con trong thai kỳ và sau khi sinh con.
- Nâng cao chất lượng cuộc sống của người nhiễm HIV: Điều trị ARV giúp người nhiễm HIV sống khỏe mạnh hơn, làm việc như những người không nhiễm HIV, tự tin và hòa nhập với cộng đồng hơn.
Một số nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng những người nhiễm virus HIV nếu được điều trị ARV sớm và duy trì điều trị tốt sẽ có tuổi thọ tương đương với những người không nhiễm HIV
Với bằng chứng về lợi ích của điều trị ARV sớm trong việc giảm nhiễm trùng cơ hội, giảm tỷ lệ tử vong, nâng cao tuổi thọ và chất lượng cuộc sống ở những người nhiễm HIV , nên điều trị ARV sớm cho những người nhiễm HIV . Hiện nay, tất cả các trường hợp được chẩn đoán là nhiễm virus HIV đều được tiến hành điều trị bằng thuốc ARV ngay khi phát hiện. Bắt đầu điều trị ARV sớm để HIV không lấn át hệ thống miễn dịch của người nhiễm HIV . Tìm cách điều trị ngay khi bạn biết mình bị nhiễm HIV ngay cả khi bạn cảm thấy khỏe.
Bất chấp những lợi ích của thuốc ARV , nhiều người nhiễm HIV hiện chỉ đến cơ sở y tế để điều trị HIV lúc sức khỏe suy giảm hoặc bị nhiễm trùng cơ hội. Lúc đó tình trạng bệnh đã muộn hoặc quá muộn. Đa số người nhiễm HIV điều trị ARV quá muộn do tâm lý chủ quan. Một số lo sợ bị kỳ thị và phân biệt đối xử và ngại nhận diện bản thân và ngại tìm kiếm các dịch vụ y tế. Nếu người nhiễm HIV được điều trị ARV muộn hoặc hoàn toàn không kiểm soát được sự phát triển của HIV , hệ miễn dịch bị suy giảm, người nhiễm HIV sẽ nhanh chóng chuyển sang giai đoạn AIDS, nhiễm trùng cơ hội, bệnh sẽ nặng hơn, đặc biệt là trong bệnh lao làm cho điều trị ARV trở nên ít hiệu quả và nguy cơ tử vong tăng lên.
Dự phòng lây nhiễm HIV bằng cách dùng thuốc ARV
Việc sử dụng thuốc kháng virus điều trị cho người nhiễm HIV để ngăn ngừa lây truyền HIV sang người không nhiễm HIV mới được các nhà khoa học phát hiện gần đây.
Một nghiên cứu trên hàng nghìn người nhiễm HIV có quan hệ tình dục đồng giới và khác giới, quan hệ tình dục qua đường hậu môn hoặc âm đạo cho thấy những người nhiễm HIV được điều trị bằng thuốc có ARV, tải lượng virus được cho là không thể phát hiện được ( < 200 bản sao / ml máu ). Được chuyển sang người khác thông qua quan hệ tình dục, hoặc cái thường được gọi là trạng thái K = K.
K = K là viết tắt của không phát hiện = không lây truyền có ý nghĩa là : nếu một người nhiễm HIV đang điều trị bằng thuốc kháng virus ARV ức chế virus dưới ngưỡng mà không thể phát hiện được, tức là tải lượng vi rút HIV <200 bản sao, sao / ml máu thì có nghĩa là HIV không lây nhiễm cho người khác thông qua quan hệ tình dục.
Vì vậy, dự phòng lây truyền HIV từ người nhiễm HIV sang người khác cần phải điều trị sớm cho người nhiễm HIV , tốt nhất là ngay khi được chẩn đoán nhiễm HIV và tuân thủ điều trị để đạt được K = K. Việc đạt được và duy trì tải lượng virus dưới ngưỡng có thể phát hiện không thực sự lây truyền HIV qua đường tình dục cho bạn tình chưa nhiễm HIV
Để đạt tải lượng virus dưới ngưỡng phát hiện cần điều trị ARV trong bao lâu
Hầu hết những người nhiễm HIV được điều trị bằng thuốc kháng virus tuân thủ tốt đều có tải lượng virus dưới ngưỡng không thể phát hiện khoảng sau từ 3 – 6 tháng điều trị. Để có thể biết được tải lượng virus đã đạt dưới ngưỡng hay chưa chúng ta cần xét nghiệm tải lượng vi rút thường xuyên để biết tải lượng virus có dưới ngưỡng phát hiện sau điều trị ARV hay không. Người nhiễm HIV trong năm điều trị ARV đầu tiên được xét nghiệm tải lượng virus hai lần (6 tháng một lần). Sau đó, làm xét nghiệm tải lượng virus 12 tháng một lần. Việc kiểm tra tải lượng virus thường xuyên là điều cần thiết không chỉ để xác định xem tải lượng virus có đạt đến ngưỡng không thể phát hiện được hay không mà còn để theo dõi hiệu quả của liệu pháp điều trị. Vì vậy, người nhiễm HIV cần biết tải lượng virus của mình trong quá trình điều trị ARV .
Để đạt được tải lượng virus không phát hiện được, tuân thủ điều trị ARV là điều kiện quan trọng để đạt được tải lượng virus không phát hiện được. Tuân thủ điều trị tức là dùng đúng thuốc, đúng liều, đúng lúc, đúng cách và đúng cách. Đúng thuốc nghĩa là không dùng nhầm thuốc trong trường hợp cần dùng nhiều hơn một loại thuốc. Liều lượng thích hợp là lượng thuốc phù hợp do bác sĩ kê đơn và số lượng viên thuốc (liều lượng) phù hợp mỗi ngày. Đúng giờ là thực hiện uống thuốc đúng 1 khung giờ mỗi ngày phù hợp với từng bệnh nhân. Uống thuốc kịp thời duy trì nồng độ cần thiết của thuốc trong máu.
Các bài viết liên quan
Bệnh lậu ở nam là gì? Biểu hiện và cách phòng, điều trị bệnh lậu ở nam?
BỊ BỆNH LẬU Ở NAM GIỚI. CÁC CÁCH NHẬN BIẾT BỆNH LẬU Ở NAM GIỚI
CÁC TRIỆU CHỨNG BỊ HIV VÀ TRIỆU CHỨNG CỦA HIV Ở GIAI ĐOẠN ĐẦU
Nguồn tham khảo
- [1] Zidovudine
- [2] Thuốc ARV